Ngoại giao và các dân tộc khác Nam-Bắc_triều_(Trung_Quốc)

tượng mô tả người ngoại quốc cưỡi lạc đà, thời Bắc Ngụy

Hai triều Nam-Bắc luôn duy trì trạng thái đối địch, Nam triều gọi Bắc triều là "tác lỗ" (giặc có bím tóc), Bắc triều gọi Nam triều là "đảo di" (mọi đảo).[2] Hai bên thường xuyên xảy ra chiến tranh, song vẫn mở cửa để mậu dịch với nhau.

Đương thời, dân tộc bản địa ở phương nam thường được gọi là "Nam Man". Ở lưu vực Trường Giang, các tộc "Bản Tuần Man", "Bàn Hồ Man", "Lẫm Quân Man" có thực lực lớn nhất.[40]Lĩnh Nam thì tộc Lý là chủ yếu. Các dân tộc này cùng người Hán tạp cư, tiến hành hoạt động nông nghiệp, chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán, dùng họ của người Hán, đến hậu kỳ Nam triều thì dần dung hợp với người Hán. Bản Tuần Man còn gọi là "người Tung", vốn cư trú ở khu vực Lãng Trung thuộc Ba quận của Ích châu, sau thiên di về phía bắc đến Hán Trung, Quan Trung. Lẫm Quân Man nguyên cư trú tại khu vực Ba quận của Ích châu và Giang Lăng của Kinh châu, về sau mở rộng đến khu vực Trường Giang-Hán Thủy và Hoài Tây. Trong sách sử có chép về Ba Đông Man, Nghi Đô Kiến Bình Man đều là chỉ Lẫm Quân Man. Bàn Hồ Man cũng được gọi là "người Khê", đất phát dương là Thìn châu.[41] phân bố ở khu vực nay là Hồ Nam và Giang Tây.

Lý tộc có phạm vi cư trú tại Nam Lĩnh, nay là khu vực nam bộ Quý Châu đến đảo Hải Nam, bắc bộ Việt Nam. Người dân Lý tộc nổi danh có Trân Pha, bà an định đất Giao-Quảng trong loạn Hầu Cảnh và loạn Âu Dương Hột, bảo hộ cho nhân dân Lý-Hán địa phương, được tôn là "Thánh Mẫu".[42] Ở phía nam của Giao châu có nước Lâm Ấp, Lâm Ấp vương Phạm Dương Mại nhiều lần xâm phạm các quận Nhật Nam, Cửu Đức của Nam triều, đến hậu kỳ Nam triều thì Lâm Ấp chiếm lĩnh thành công quận Nhật Nam.[43] Giao châu của Nam triều từng nhiều lần phát sinh sự kiện cát cứ kháng mệnh, bắt đầu từ năm 468 với việc huynh đệ Lý Trường NhânLý Thúc Hiến chiếm hữu Giao châu chống lại triều đình Lưu Tống, Nam Tề Cao Đế nghe theo kiến nghị của Lưu Thiện Minh,[44] an phủ Lý Thúc Hiến làm Giao châu thứ sử. Thời kỳ Nam Tề Vũ Đế, Lý Thúc Hiến ngăn chặn ngoại quốc dâng biếu cho triều đình, Vũ Đế thừa cơ phái binh công chiếm Giao châu. Thời Lương, năm 505, Giao châu thứ sử Lý Khải cát cứ châu làm phản, triều đình Lương phái Lý Tháo đi bình định, đồng thời trảm thủ lĩnh nổi dậy địa phương là Nguyễn Tông Hiếu. Năm 541, Lý Bí khởi sự, đánh chiếm châu thành Long Biên, đến năm 544 thì kiến quốc Vạn Xuân. Năm sau, triều đình Lương khiển Dương Phiếu, Trần Bá Tiên suất binh đánh bại quân đội của Lý Bí. Năm 546, Lý Bí thoái lui về động Khuất Lão rồi qua đời, bộ hạ của ông là Triệu Quang Phục vẫn chiếm Long Biên, huynh trưởng của ông là Lý Thiên Bảo chiếm động Khuất Lão. Lý Phật Tử sau khi kế thừa Lý Thiên Bảo vào năm 571 thì đem quân đánh diệt Triệu Quang Phục. Đến thời Tùy, triều đình phái Lưu Phương nam chinh, Lý Phật Tử xin hàng triều đình Tùy.[45]

Từ những năm cuối Đông Hán đến thời Đông Tấn, triều đình Trung Nguyên không có sức để tâm đến khu vực Nam Trung ở Tây Nam, do vậy hào tộc Thoán thị hình thành cát cứ tại đó. Vào thời Lưu Tống, Tề, Lương, tuy Nam Trung vẫn còn là thuộc địa, triều đình đặt chức Ninh châu thứ sử, song đại đa số đều "diêu lĩnh", không thể đến nhậm chức, thành viên Thoán thị trở thành những người khống chế khu vực này trên thực tế.[46] Ninh châu thứ sử Từ Văn Thịnh của triều Lương từng có hoạt động tại nơi này,[47] song do loạn Hầu Cảnh bùng phát nên ông phải dời đi. Năm 553, Tây Ngụy thừa cơ đánh chiếm đất Ba Thục, đặt chức Ích châu thứ sử, sang thời Bắc Chu, triều đình từng lệnh cho Ích châu thứ sử Uất Trì Huýnh kiêm lo việc quân sự của Ninh châu, chiêu lại khu vực Nam Trung, bổ nhiệm Thoán Toản làm Ninh châu thứ sử,[48] Nam Trung trở thành thuộc địa của Bắc Chu.[49]

Phạm vi thế lực của Nhu Nhiên hãn quốc vào năm 550.

Nhu Nhiên từng là bộ tộc lệ thuộc vào Thác Bạt Tiên Ti, có mối quan hệ gần gũi với Thác Bạt bộ (tiền thân của Bắc Ngụy), là cường quốc số một ở khu vực Mạc Nam và Mạc Bắc. Từ thời kỳ Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế, Nhu Nhiên thường tiến đánh Bắc Ngụy, đồng thời cướp phá hành lang Hà Tây, biến Đột Quyết, Cao Xa thành những thuộc quốc. Thời kỳ Đông Ngụy-Tây Ngụy, năm 552, thủ lĩnh Đột Quyết là Thổ Môn khả hãn kiến lập Đột Quyết hãn quốc, hai năm sau thì dánh diệt Nhu Nhiên. Đột Quyết thôn tính dư chúng của Cao Xa, cùng vương triều Sassanid diệt Bạch Hung Nô vào năm 558, cương vực khuếch trương về phía đông đến sông Bureya, bắc đến hồ Baikaldãy núi Stanovoy, nam đến sát Trung Nguyên và sông Amu Darya, tây đến biển Aral. Đột Quyết sau lấy dãy núi Altay làm ranh giới, hình thành Đông Đột Quyết thuộc Thổ Môn hệ và Tây Đột Quyết thuộc Thất Điểm Mật hệ.

Đương thời, các dân tộc ở phía đông bắc của Trung Nguyên có thể phân thành hai ngữ tộc lớn: ngữ tộc Phù Dư gồm Phù Dư Quốc, Khố Mạc Hề, Khiết ĐanThất Vi; ngữ tộc Vật Cát (Mạt Hạt) phân thành 7 bộ tộc.[42] Phù Dư Quốc có kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và súc mục nghiệp, có nhiều ngựa tốt, ngọc đỏ, ngọc trai lớn, da chồn. Trong xã hội thịnh hành vu thuật, trong thời chiến tranh thường tiến hành tế thiên xem bói để biết trước cát hung. Người Vật Cát thì "hai người cày cùng nhau, đất trồng nhiều dẻ, mạch, tế, rau, lại có cả quỳ", có cả nghề săn bắn. Sơ kỳ Đông Hán, Phù Dư Quốc cường thịnh, thần phục được các nước Vật Cát, người Phù Dư Quốc và Cao Câu LyBách Tế có quan hệ. Đến thời kỳ Bắc Ngụy, từ năm Diên Hưng thứ 6 (475) thời Hiếu Văn Đế, Vật Cát dần hưng thịnh, không lâu sau các nước ở phía đông bắc như Vật Cát, Phù Dư, Cao Câu Ly khiển sứ sang triều cống Bắc Ngụy. Bắc Ngụy sau khi an định khu vực này, cho khai thị tại khu vực giữa Hòa LongMật Vân để liên hệ mậu dịch và sứ thần với các nước ở phía đông bắc. Năm 478, Vật Cát thỉnh cầu Bắc Ngụy cùng Bách Tế nam bắc giáp công Cao Câu Ly, Bắc Ngụy ngăn chặn chiến tranh phát sinh. Sau khi Bắc Ngụy suy thoái, Vật Cát diệt Phù Dư Quốc vào năm 493, lãnh thổ khuếch trương ra toàn bộ bình nguyên Tùng Liêu, trở thành một bộ lạc lớn mạnh ở khu vực đông bắc.

Trên báo đảo Triều TiênTam Quốc: Cao Câu Ly, Bách Tế và Tân La, cùng với Oa Quốc tại Nhật Bản. Cao Câu Ly là cường quốc, uy phục Bách Tế và Tân La, thôn tính di dân Phù Dư, thụ sách phong quốc vương của các Nam Bắc triều, sau năm 550 vì tranh đấu nội bộ mà dần suy thoái. Bách Tế chịu sự chèn ép của Cao Câu Ly và Tân La, do vậy nỗ lực duy trì quan hệ với Lương, Oa Quốc, về mặt mậu dịch và triều cống đều phát triển sôi nổi. Tân La chịu sự uy hiếp của Cao Câu Ly, do vậy kết minh với Bách Tế, đến thế kỷ VI bắt đầu cường thịnh, đồng thời thôn tính Nhâm Na. Vào thời Tấn mạt và Nam triều, Oa ngũ vương nhiều lần khiển sứ đến Kiến Khang.[chú 9] yêu cầu được hoàng đế Nam triều sách phong. Trong đó, Oa vương từng đề cập với Lưu Tống Thuận Đế về việc muốn tiến quân vào bán đảo Triều Tiên.[50] Oa Quốc dựa vào sách phong của hoàng đế Nam triều, củng cố thế lực tại Nhâm Na. Nam triều cũng dần gia tăng sách phong với Oa vương, thừa nhận Oa Quốc thống trị một bộ phận nam bộ bán đảo Triều Tiên.[51]

Sau khi Cừu Trì Quốc mất vào tay Bắc Ngụy, phân biệt kiến lập Vũ Hưng Quốc và Âm Bình Quốc. Năm 472, Dương Văn Độ kiến quốc Vũ Hưng, chu toàn và giao chiến với hai triều Nam Bắc. Năm 505, Dương Thiệu Tiên xưng đế, năm sau bại trận trước Bắc Ngụy và bị bắt. Năm 534, Dương Thiệu Tiên thừa cơ Bắc Ngụy phân liệt mà phục hưng Vũ Hưng, đến năm 553 thì mất về tay Tây Ngụy.[52] Năm 477, Dương Quảng Hương kiến quốc Âm Bình,[chú 10] chịu sự chi phối của Bắc Ngụy, hữu hảo với Nam Tề và Lương.[53] Năm 580, Dương Vĩnh An ở Sa châu hưởng ứng Ích châu tổng quản Vương Khiêm, khởi binh phản kháng, cuối cùng chiến bại và nước mất.[54]

Tây Vực vào thời Nam Bắc triều có tiến bộ về mặt kinh tế và văn hóa, đương thời con đường tơ lụa có ba tuyến: từ Cao Xương về phía tây, hợp cùng trung đạo hợp tại Quy Từ tạo thành tân bắc đạo; nam đạo từ Thiện Thiện đến Vu Lãng. Quốc gia hay thành thị nổi danh có Cao Xa, Cao Xương, Thiện Thiện, Quy Từ và Vu Điền.[55] Cao Xa nguyên là Phục La bộ Thiết Lặc, thần phục Nhu Nhiên. Năm 487, lĩnh chủ A Phục Chí La suất bộ tây thiên đến khu vực nay là tây bắc Thổ Lỗ Phiên, kiến quốc Cao Xa. Cao Xa từng uy thịnh Tây Vực, cũng từng tạm khống chế Cao Xương trong một thời gian ngắn. Về sau, Cao Xa liên tục bị Áp Đạt và Nhu Nhiên giáp công, đến năm 541 thì bị Nhu Nhiên đánh diệt, dư chúng vào năm 546 hợp vào Đột Quyết hãn quốc. Thời Bắc Ngụy Thái Vũ Đế, Bắc Ngụy có hai cứ điểm tại Tây Vực, một là ở Cao Xương quận, một được thiết lập sau khi phái Vạn Độ Quy đánh hạ, tương đương với Thiện Thiện. Thời kỳ Bắc Ngụy Văn Thành Đế, Nhu Nhiên phù trợ Khám Bá Chu làm vương, Cao Xương Quốc chính thức kiến lập. Trải qua nhiều năm phải đương đầu với việc các nước xung quanh tranh đoạt, đến năm 499, Khúc Gia kiến lập Khúc thị Cao Xương. Quy Từ giàu tài nguyên than đá, sắt, giỏi nghề đúc.[56] Ngoài ra, Quy Từ còn có các sản phẩm đồng, chì, ngựa tốt, hồ phấn, An Tức hương, là trung tâm kinh tế của Tây Vực. Vu Điền quốc vương và bách tính đều tôn kính Phật pháp, trong nước có rất nhiều tăng lữ và tu viện.[57] Rất nhiều danh tăng Trung Nguyên đến Vu Điền để lấy kinh thư, bách tính đều sẵn lòng dâng tăng phòng cho tăng lữ viễn phương, khiến Vu Điền trở thành trung tâm Phật giáo.

"Chức cống đồ", do Lương Nguyên Đế Tiêu Dịch vẽ, sáng tác vào khoảng 526539. Là "Chức cống đồ" cổ nhất còn bảo tồn được trong lịch sử Trung Quốc, trong đó mô tả hình tượng và đặc tính của sứ giả 35 nước đến Lương triều cống, cho thấy tình hình của thể chế triều cống đương thời. Hiện còn bảo lưu được hình 12 quốc sứ, từ trái sáng phải: Mạt Quốc, Bạch Đề, Hồ Mật Đan, A Bạt Đàn, Chu Cổ Kha, Đặng Chí, Lang Nha Tu, Oa, Quy Từ, Bách Tế, Ba Tư, Hoạt/Áp Đạt.